Vụ án đòi nhà đất cho ở nhờ từ năm 1958

Thứ Wed,
06/03/2019
Đăng bởi Admin

đòi lại nhà đất cho ở nhờ

 

NỘI DUNG VỤ ÁN

 

1. Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ch trình bày:

 

Nguồn gốc nhà và đất tranh chấp tại tổ 9, khu vực X, phường T, thành phố Q, tỉnh Bình Định là của cụ Nguyễn S1 và cụ Nguyễn Thị H1 (cha mẹ bà Nguyễn Thị Ch) tạo lập, diện tích 03 sào 08 thước 02 tất (tương đương 2.000m2 và có trích lục địa bộ của chế độ cũ). Sau đó, chia phần cho bà Nguyễn Thị Ch (là người con duy nhất) một phần thửa đất nói trên có diện tích 310m2 quản lý, sử dụng.

 

Năm 1957, bà Ch làm một nhà tranh vách đất nền gạch thẻ, diện tích khoảng 10m2 tại thửa đất nói trên. Năm 1960, do chiến tranh nên gia đình cụ Lê Văn A1 (cha ông M) tản cư đến xin ở nhờ; vì tin tưởng nhau nên 02 bên không viết giấy tờ gì.

 

Năm 1975, ngôi nhà bị dột nát, bà Ch đồng ý cho cụ A1 sửa lại; qua nhiều lần sửa chữa, cụ A1 nới rộng diện tích và sau đó giao cho ông Lê Văn M tiếp tục quản lý, sử dụng. Khoảng năm 1995, bà Ch nhiều lần đến gặp ông M đòi nhà đất cho ở nhờ nhưng ông M không trả; thửa đất đang tranh chấp thuộc quyền sở hữu hợp pháp của gia đình bà Ch; ông M lén lút đi đăng ký kê khai hợp pháp quyền sở hữu nhà đất nói trên.

 

Do đó, bà Nguyễn Thị Ch khởi kiện đòi nhà đất cho ở nhờ yêu cầu Tòa án buộc ông Lê Văn M phải trả lại nhà gắn liền với đất tại tổ 9, khu vực X, phường T, thành phố Q, tỉnh Bình Định - hiện nay ông M đang quản lý, sử dụng và bà Ch sẽ có trách nhiệm thôi lại tiên cho ông M theo quy định. Đối với số tiền 92.774.400 đồng do nhà nước thực hiện đền bù khi mở rộng Quốc lộ 1A; khi Bản án số 36/2002/DS-PT ngày 18/4/2002 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định có hiệu lực pháp luật, bà Ch đã ủy quyền cho ông Phan Văn Lực (Rựa) nhận khoản tiền này. Nhà đất thuộc quyền sở hữu hợp pháp của gia đình bà Ch nên số tiền nói trên cũng thuộc quyền sở hữu hợp pháp của gia đình bà Ch. Bà Ch không yêu cầu Tòa án giải quyết phân chia số tiền nói trên, gia đình bà Ch sẽ tự phân chia.

 

2. Bị đơn ông Lê Văn M trình bày:  

 

Nguồn gốc nhà và đất tại tổ 9, khu vực X, phường T, thành phố Q, tỉnh Bình Định là năm 1960 cha ông M là cụ Lê Văn A1 (chết) mua đất của cụ Nguyễn Thị H1 (mẹ bà Nguyễn Thị Ch), hai bên có viết giấy mua bán đất và có xác nhận tại UBND xã P thời kỳ chế độ cũ; diện tích 310m2, trên đất có căn chòi 9m2, cạnh 3m, mái lợp tranh rạ, tường trết đất nền lát gạch thẻ, cửa đóng bằng miếng ván, xung quanh vườn có vài cây bạch đàn. Sau khi mua đất, gia đình ông M đã tôn tạo, sửa chữa nhiều lần và cơi nới thêm diện tích đất.

 

Năm 1969, nhà bị cháy, phía quân đội Mỹ đóng tại địa phương đến hiện trường và sau đó giúp đỡ tôn, gỗ, thực phẩm để gia đình tiếp tục xây dựng lại. Năm 1970, gia đình ông M mở cơ sở làm kem cũng xây dựng trên vị trí này; năm 1972, cụ A1 cho ông M toàn bộ diện tích nhà đất và cơ sở làm kem để quản lý, sử dụng.

 

Năm 1975, đất nước giải phóng, gia đình ông M vẫn sống ổn định trên thửa đất nói trên. Năm 1984, do bị bão lớn làm tốc mái một phần nhà nên được UBND phường hỗ trợ tiền. Năm 1986, Nhà nước thông báo toàn bộ cho các hộ dân đăng ký kê khai diện tích đất đai sử dụng nên gia đình ông M cũng kê khai đầy đủ theo thủ tục. Năm 1987, ông M xây dựng thêm một căn nhà quán ở phía trước sát với đường Quốc lộ 1A để mở quán cà phê diện tích khoảng 50-60m2. Đến khi Nhà nước giải tỏa, quán cà phê bị tháo dỡ và gia đình nhận được số tiền hỗ trợ 200.000 đồng. Năm 1995, gia đình có dự định đổ đất đá để xây dựng thì phía gia đình bà Nguyễn Thị Ch đến cản trở. Năm 2001, giải phóng Quốc lộ 1A có đền bù số tiền 92.774.000 đồng. Năm 2001, ông M xây dựng căn nhà cũ khoảng 60m2, mái tôn (căn nhà quán hiện nay); phần nhà cũ vẫn còn.

 

Sau khi có Bản án số 92/2008/DSPT ngày 19/8/2008 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng thì gia đình ông M đã tiến hành xây dựng lại nhà cửa; năm 2010, toàn bộ căn nhà được xây dựng xong và đã được ủy ban nhân dân thành phố Q, tỉnh Bình Định (viết tắt là UBND thành phố Q) cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH00593 ngày 01/02/2013. Do vậy, ông không đồng ý với yêu cầu đòi lại nhà đất của bà Ch.

 

3. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị Ph2, anh Lê Nguyên Th1, anh Lê Nguyên T, anh Lê Nguyên T1, anh Lê Nguyên Th2, chị Lê Thị Thanh Th3, chị Lê Thị Thanh H, chị Lê Thị Tuyết L thống nhất như trình bày của Bà Nguyễn Thị Ph2, anh Lê Nguyên Th1, anh Lê Nguyên T, anh Lê Nguyên T1, anh Lê Nguyên Th2, chị Lê Thị Thanh Th3, chị Lê Thị Thanh H, chị Lê Thị Tuyết L của ông Lê Văn M và không có yêu cầu hoặc trình bày nào khác.

 

4. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Ph, anh Nguyễn Quốc Ph1, chị Phan Thị cấm Ng, anh Phan Quốc Thành N, chị Phan Thị Cẩm A thong nhất trình bày: 

 
Ông Phan Văn L1 (Rựa) chết ngày 01/8/2014 (ÂL). Bà Ph và ông L1 có 04 người con là Phạn Qụốc Ph1, Phan Thị cẩm Ng, Phan Quốc Thành N và Phan Thị Cẩm A. Ngoài ra, ông L1 không có con nuôi hoặc con riêng nào khác. Bà Nguyễn Thị Ph, anh Nguyễn Quốc Ph1, chị Phan Thị Cẩm Ng, anh Phan Quốc Thành N, chị Phan Thị Cẩm A thống nhất với phần trình bày của bà Nguyễn Thị Ch, về nguồn gốc nhà và đất đang tranh chấp tại tổ 9, khu vực X, phường T, thành phố Q, tỉnh Bình Định. Đối với số tiền 92.774.400 đồng do nhà nước thực hiện đền bù khi mở rộng Quốc lộ 1A; khi Bản án số 36/2002/DS-PT ngày 18/4/2002 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định có hiệu lực pháp luật, bà Nguyễn Thị Ch đã ủy quyền cho ông Phan Văn L1 (Rựa) nhận khoản tiền này. Nhà đất thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bà Ch nên số tiền nói trên cũng thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bà Ch. Về việc phân chia số tiền nói trên như thế nào, gia đình bà Ph tự quyết định, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Bà Nguyễn Thị Ph, anh Nguyễn Quốc Ph1, chị Phan Thị Cẩm Ng, anh Phan Quốc Thành N, chị Phan Thị Cẩm A thống nhất với yêu cầu khởi kiện của bà Ch đòi nhà đất cho ở nhờ của ông M và không có ý kiến hoặc yêu cầu nào khác. Tại bản án sơ thẩm đã giải quyết các yêu cầu của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan của ông Lê Văn Th, Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản tỉnh Bình Định, ông Trần Đình Thiện Nhẫn đại diện, Chi Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bình Định (do ông Nguyễn Hoàng đại diện). Quan hệ pháp luật có liên quan đến họ đã được giải quyết, không có kháng cao kháng nghị nên không đề cập lại trong nội dung vụ án.

 

5. Đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Văn Sơn - Phó Chủ tịch UBND thành phố Q trình bày: Trình tự hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất của ông Lê Văn M và bà Nguyễn Thị Ph2: UBND thành phố Q tiếp nhận hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất của ông Lê Văn M và bà Nguyễn Thị Ph2; hồ sơ gồm có: - Đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; - Bản án dân sự sơ thẩm số 09/2007/DSST ngày 23/8/2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định; - Bản án dân sự phúc thẩm số 02/2008/DSPT ngày 19/8/2008 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng. - Quyết định số 03/QĐ-THA ngày 06/10/2008 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bình Định; - Đơn xin xác nhận quyền sở hữu.

 

Sau khi tiếp nhận hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất của ông Lê Văn M và bà Nguyễn Thị Ph2; Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất đã phối hợp với ủy ban nhân dân phường T, thành phố Q, tỉnh Bình Định (viết tắt là UBND phường T) kiểm tra, đo đạc thực tế và có Văn bản số 1004/VPĐK-CV ngày 07/11/2012 về việc xác minh nguồn gốc đất của ông Lê Văn M gửi UBND phường T. Ngày 13/11/2012, UBND phường T có văn bản phúc đáp số 124/UBND-ĐC về việc xác minh nguồn gốc đất của ông M. Trên cơ sở nguồn gốc sử dụng đất do UBND phường T xác nhận và Bản án dân sự phúc thẩm số 02/2008/DSPT ngày 19/8/2008 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nằng, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất đã chuyển thông tin địa chính sang Chi cục thuế thành phố Q xác định nghĩa vụ tài chính tại Văn bản số 3087/PC-VPĐK ngày 28/11/2012 với nguồn gốc sử dụng nhà và đất như sau: Được sử dụng nhà và đất với diện tích 201,5m2 theo bản án dân sự phúc thẩm nói trên. Theo Công văn số 124/UBNĐ- ĐC ngày 13/11/2012 của UBND phường T thì năm 2001 thực hiện dự án mở rộng Quốc lộ 1A đã thu hồi và đền bù đất ở là 96,64m2; năm 2003, dự án tránh cầu Diêu Trì đã thu hồi và đền bù 23,36m2; tổng diện tích thu hồi là 120m2. Ngày 21/01/2013,Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố Q có Tờ trình, số 172/T.Tr-TNMT về việc đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất của ông Lê Văn M và bà Nguyễn Thị Ph2. Ngày 01/02/2013, UBND thành phố Q đã ký cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất của ông Lê Văn M và bà Nguyễn Thị Ph2.

 

Từ những căn cứ nói trên thì hồ sơ và quy trình cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất của ông Lê Văn M và bá Nguyễn Thị Ph2, UBND thành phố Q đã thực hiện đúng theo quy định pháp luật. Đối với yêu cầu khởi kiện và yêu cầu độc lập của các đương sự trong vụ án, UBND thành phố Q không có ý kiến gì và đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
 

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

 

Căn cứ vào hồ sơ vụ án, các chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra, kết quả tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm, phát biểu của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy:

 

[1]. Về áp dụng pháp luật để giải quyết vụ án: Thời điểm xảy ra tranh chấp giữa bà Nguyễn Thị Ch với ông Lê Văn M là vào năm 1996 nhưng tại Bản án sơ thẩm số 18/2017/DS-ST ngày 20/6/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định đã xác định quan hệ pháp luật “Tranh chấp đòi nhà đất cho ở nhờ” và áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 để giải quyết vụ án là áp dụng pháp luật không chính xác. 
 


Mặt khác, tại Quyết định Giám đốc thẩm số 60/2013/DS-GĐT ngày 16/3/2013 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã huỷ Bản án dân sự phúc thẩm số 92/2008/DSPT ngày 19/8/2008 của Toà phúc thẩm toà án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng và bản án dân sự sơ thẩm số 09/2007/DSST ngày 23/8/2007 của Toà án nhân dân tỉnh Bình Định đồng thời đã yêu cầu: “Chứng minh làm rõ việc cụ A1 vào ở nhà đất của bà Ch là thuộc trường hợp ở nhờ hay đã mua nhà đất của bà Ch (cụ H1 mẹ bà Ch) để áp dụng đúng quy định của pháp luật để giải quyết đúng quan hệ tranh chấp trong vụ án. Trong trường hợp ông M không chứng minh được đã mua nhà và đất của bà Ch thì phải xác định gia đình của ông M ở nhờ nhà đất của bà Ch và cần áp dụng Nghị quyết số 58/1998/UBTVQH ngày 20/8/1998 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01/7/1991 để giải quyết”(viết tắt là Nghị quyết 58). Khi giải quyết lại vụ án theo trình tự sơ thẩm ông Lê Văn M không chứng minh được việc mua nhà đất của bà Nguyễn Thị Ch nhưng cấp sơ thẩm có nêu Nghị quyết 58. Nhưng về nội dung của Bản án sơ thẩm thì không nhận định theo Nghị quyết nói trên để xem xét giải quyết vụ án là không thực hiện đúng theo yêu cầu tại Quyết định Giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. Do vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm cần áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự năm 1995, Nghị quyết 58 và Thông tư số 01/1999/TTLT-TANDTCVKSNDTC ngày 25/01/1999 của Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn giải quyết về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01/7/1991 để giải quyết vụ án (viết tắt là Thông tư số 01).

 

[2]. Về nội dung:

 

[2.1]. Nguồn gốc nhà đất:

 

Theo bà Nguyễn Thị Ch trình bày, bố mẹ bà là cụ Nguyễn S1 và Nguyễn Thị H1 có một thửa đất diện tích 3 sào 08 thước 2 tấc (tương ứng khoảng 2000m2) tại tổ 9, khu vực X, phường T, thành phố Q, tỉnh Bình Định. Năm 1957 cụ S1, cụ H1 có cho bà Ch diện tích 310m2 bà có làm một căn nhà tranh, vách đất lát nền gạch diện tích 10m2. Năm 1960 cụ Lê Văn A1 (bố của ông Lê Văn M) đến xin ở nhờ, hai bên không viết giấy tờ gì. Năm 1975 nhà cửa dột nát, cụ A1 nhiều lần sửa chữa cơi nới rộng diện tích và làm nhà mới, bà Ch vẫn đồng ý. Sau đó cụ A1 giao lại nhà đất cho ông Lê Văn M quản lý sử dụng. Ông M đã đi đăng ký kê khai đất đai bà không biết. Nay bà khởi kiện đòi lại thửa đất nói trên, về tài sản nhà cửa thì bà sẽ hoàn tiền lại cho ông M. Theo ông M trình bày: Thửa đất và ngôi nhà nói trên năm 1960 cụ Lê Văn A1 (đã chết) mua lại của cụ Nguyễn Thị H1 (mẹ bà Nguyễn Thị Ch) hai bên có viết giấy mua bán và được chính quyền xã P của chế độ cũ xác nhận. Sau khi mua gia đình cụ A1 đã nhiều lần sửa chữa, nâng cấp lại nhà để ở, đến năm 1969 nhà bị cháy nên gia đình cụ A1 xây dựng nhà mới. Năm 1972 cụ A1 cho ông M, quá trình ông M sử dụng đất đã nhiều lần làm lại nhà vào các năm 1984, 1987.

 

Năm 1986 ông M đã đăng ký, kê khai đối với thửa đất, đến năm 1995 ông M chuẩn bị vật liệu xây dựng lại nhà thì bà Ch cản trở và xảy ra tranh chấp. Sau khi có Bản án số 92/2008/DSPT ngày 19/8/2008 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng thì ông M đã xây dựng nhà kiên cố đến ngày 01/2/2013 thì được UBND thành phố Q cấp giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất số CH00593.  

 

Tại phiên toà phúc thẩm ông M xin thay đổi lời khai, ông không biết gì về giấy tờ mua bán nhà, lời khai của ông trước đây là không chính xác. Việc thay đổi lời khai của ông M là không có cơ sở nên không xem xét. Xét thấy, theo hồ sơ vụ án ông Lê Văn M cho rằng nhà đất của ông đang quản lý, sử dụng là do cụ Lê Văn A1 mua của cụ Nguyễn Thị H1 (mẹ của bà Ch), như vậy giữa hai bên đã thừa nhận về nguồn gốc tài sản. Căn cứ Điều 80 Bộ luật tố tung dân sự 2004 thì nội dung này không cần phải chứng minh. Quá trình thu thập, giải quyết lại vụ án ông M vẫn không đưa ra được tài liệu, chứng cứ gì để chứng minh cho việc mua bán nhà giữa cụ A1 và cụ H1. Như vậy, lời trình bày của bà Nguyễn Thị Ch về việc đã cho cụ Lê Văn A1 ở nhờ nhà đất là có căn cứ cần được chấp nhận việc bà Ch khởi kiện đòi lại tài sản nhà đất cho ở nhở. Vì vậy, cần sửa toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 18/2017/DS-ST ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Ch.

 

[2.2]. Xuất phát từ quan hệ pháp luật tranh chấp “Đòi lại nhà đất cho ở nhờ” Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy cần áp dụng Nghị quyết 58 ngày 24/8/1998 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Thông tư số 01 để xem xét, giải quyết vụ án. Trên cơ sở nghiên cứu, áp dụng các nguyên tắc giải quyết các giao dịch dân sự về nhà ở thuộc sở hữu tư nhân được xác lập trước ngày 01/7/1991 tại khoản 1, khoản 2, khoản 3 Điều 1 của Nghị quyết 58, các quy định về cho mượn, cho ở nhờ nhà ở giữa các cá nhân với các nhân tại Điều 4. Quy định về sửa chửa, cải tạo, nâng cấp làm thêm diện tích, xây dựng nhà ở mới tại Điều 11 Nghị quyết 58 và hướng dẫn tại Điều 2 Mục III của Thông tư liên tịch 01. Thấy rằng: Bà Ch và bà Ph thừa nhận, khi cho con cụ A1 ở nhờ hai bên không viết giấy tờ gì. Ngôi nhà 10m2 của bà Ch trên đất không còn tồn tại từ lâu, tài sản nhà cửa trên đất hiện nay là của ông Lê Văn M. Lời khai của bà Ph tại phiên toà phúc thẩm, trong trường hợp Toà án chấp nhận đơn khởi kiện thì bà đồng ý trả lại toàn bộ giá trị tài sản trên đất cho ông M. Xem xét điều kiện của gia đình ông M hiện có 19 thành viên đang chung sống ổn định, thời gian gần 58 năm trên thửa đất này. Quá trình sửa chửa, xây dựng lại nhà cửa bà Ch điều biết và đồng ý, việc ông M xây dựng lại nhà ở kiên cố vào năm 2009, 2010 là trên cơ sở bản án đã có hiệu lực pháp luật của Toà án, ông M không có lỗi trong việc xây dựng nhà cửa. Xét hiện trạng thực tế của thửa đất đã được đo đạc thẩm định và định giá tài sản ngày 05/12/2017 và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ), quyền sở  hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cấp ngày 01/02/2013, thấy rằng cần buộc ông Lê Văn M trả lại một phần diện tích đất 82,7m2, trên đó có ngôi nhà cấp 4 diện tích 21,35m2 giá trị sử dụng còn lại có giá trị là 31.195.808 đồng.

 

Đối với diện tích 118,8m2 do ông M đã xây dựng nhà kiên cố, đã chuyển mục đích sử dụng đất và đã nộp 50% tiền sử dụng đất vào ngày 18/6/2014 nên buộc ông Lê Văn M trả lại 50% giá trị đất ở theo khung giá do UBND tỉnh Bình Định theo Quyết định số 34/QĐ-UBND ngày 22/12/2014, nhân với hệ số K1=1,1 theo quyết định 25/2016/QĐ-UBND ngày 28/04/2016 của UBND tỉnh Bình Định cho bà Nguyễn Thị Ch, cụ thể: - Giá đất 7.700.000 đồng/m2 x 1,1 (hệ số K) = 8.470.000 đồng/m2 - Số tiền ông M phải trả cho bà Ch: 8.470.000 đồng/m2 x 118,8 m2 : 2 = 503.118.000 đồng.

 

Đối với tiền bồi đắp 41.550.000 đồng. Tiền nộp thuế 13.532.210 đồng và tiền trông giữ bảo quản đất đai mỗi năm 10.000.000 đồng x 58 năm = 580.000.000 đồng do ông M đưa ra, bà Nguyễn Thị Ph có ý kiến: Trường hợp Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Ch thì bà đồng ý trả lại 41.550.000 đồng tiền bồi đắp đất và 13.532.210 đồng tiền thuế.

 

Còn đối với 580.000.000 đồng tiền trông giữ đất bà chỉ đồng ý trả 100.000.000 đồng với điều kiện trả lại toàn bộ diện tích thửa đất còn lại (201,5m2). Xét thấy: trong quá trình sử dụng đất ông M đã có bồi đắp và thực hiện nghĩa vụ thuế trên thửa đất và được nguyên đơn thừa nhận, do vậy cần buộc bà Ch hoàn trả lại giá trị bồi đắp 41.550.000 đồng và tiền thuế 13.532.000 đồng. Đối với công sức bảo quản gìn giữ đất, ông M yêu cầu 580.000.000 đồng là không có cơ sở chứng minh. Tuy nhiên, bà Ph có ý kiến đồng ý trả 100.000.000 đồng với điều kiện Toà án buộc ông M trả lại hết diện tích thửa đất (201,5m2). Xem xét ý kiến của bà Ph, như Hội đồng xét xử đã nhận định nêu trên chỉ buộc ông M trả một phần diện tích thửa đất là 82,7m2 và trả lại 50% giá trị thửa đất (118 m2) nên cần buộc bà Nguyễn Thị Ch trả lại 50% số tiền bảo quản, gìn giữ đất như ý kiến bà Ph đưa ra tương ứng 50.000.000 đồng cho ông M là hợp lý. Đối trừ nghĩa vụ, ông Lê Văn M còn phải trả cho bà Nguyễn Thị Ch số tiền 503.118.000 đồng – 105.082.221 đồng (31.195.808 đồng +41.550.000 đồng + 13.532.210 đồng + 50.000.000 đồng) = 366.839.971 đồng (làm tròn 366.840.000 đồng).

 

Đối với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH 00593 do UBND thành phố Q cấp ngày 01/02/2013 cho ông Lê Văn M và bà Nguyễn Thị Ph2 thời điểm cấp giấy là đúng quy định của pháp luật. Nhưng do sửa bản án sơ thẩm, quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất thay đổi nên các đương sự có trách nhiệm đến cơ quan có thẩm quyền để làm các thủ tục điều chỉnh và cấp GCNQSDĐ theo quy định của pháp luật về đất đai. Do chấp nhận yêu cầu khởi kiện cũng như kháng cáo nên buộc ông M phải chịu tiền án phí sơ thẩm và án phí phúc thẩm dân sự theo quy định của pháp luật.

 

Về chi phí tố tụng buộc ông M phải chịu. Bà Nguyễn Thị Ch không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, phúc thẩm và các chi phí tố tụng.

 

Đối với Đơn yêu cầu và ý kiến trình bày của ông Lê Văn Th, xét thấy ông Th có mặt tại phiên tòa sơ thẩm nhưng ông không kháng cáo, do vậy không thuộc phạm vi, thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm nên không xem xét.

 

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm về bác yêu cầu của Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tỉnh Bình Định, án phí dân sự sơ thẩm đối với Trung tâm dịch vụ bán đấu giá  tỉnh Bình Định không có kháng cáo, kháng nghị nên Hội đồng xét xử không xem xét.

 

Vì các lẽ trên,

 

QUYẾT ĐỊNH:

 

1. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự  năm 2015; Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện và kháng cáo của bà Nguyễn Thị Ch, người đại diện theo uỷ quyền của bà Ch là bà Nguyễn Thị Ph, sửa toàn bộ Bản án sơ thẩm đối với phần liên quan đến yêu cầu khởi kiện và kháng cáo của bà Nguyễn Thị Ch, bà Nguyễn Thị Ph. Áp dụng các Điều 263, 264 Bộ luật dân sự năm 1995; Khoản 6 Điều 73 Luật đất đai năm 1993; Nghị quyết số 58/1998/UBTVQH ngày 20/8/1998 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; Thông tư số 01/1999/TTLT-TANDTC-VKSNDTC ngày ngày 25/01/1999 của Toà án nhân dân tối cao và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.

 

Xử:

 

Buộc ông Lê Văn M và  bà Nguyễn Thị Ph2  trả lại 82,7m2 đất (phần đất trồng cây lâu năm), trên đất có căn nhà có diện tích 21,45m2 kích thước tiếp giáp đường Lạc Long Quân dài 6m, tiếp giáp đường nội bộ dài 11,39m, tiếp giáp nhà ông Trọng 7,9m, tiếp giáp nhà ông Lê Văn M dài 12,35m, tại thửa đất số 78, tờ bản đồ số 9, thuộc Tổ 9, khu vực X, phường T, thành phố Q, tỉnh Bình Định cho bà Nguyễn Thị Ch.
 

 

Xử:

 

Buộc ông Lê Văn M, bà Nguyễn Thị Ph2 trả lại 50% giá trị đất ở, đối với diện tích 118,8m2 theo khung giá đất tại Quyết định 34/2014/QĐ-UBND ngày 22/12/2014 và hệ số điều chỉnh (K) tại Quyết định số 25/2016/QĐ-UBND ngày 28/4/2016 của UBND tỉnh Bình Định. Cụ thể giá trị đất ông M phải trả cho bà Ch như sau: - Giá đất:  7.700.000 đồng/m2 x 1,1 (hệ số K) = 8.470.000 đồng/m2. - Số tiền ông M phải trả: 8.470.000 đồng/m2 x 118,8 m2 : 2 = 503.118.000 đồng. - Bà Nguyễn Thị Ch phải hoàn trả lại giá trị căn nhà cấp 4 có diện tích 21,35m2 (nằm trên phần đất 82,7m2) giá 31.195.808 đồng (theo bên bản định giá ngày 05/12/2017). Bà Ch được quyền sử dụng 82,7 m2 đất và quyền sở hữu căn nhà cấp 4 nêu trên, ông M phải giữ nguyên hiện trạng căn nhà nói trên để giao cho bà Ch. ( Số liệu và sơ đồ kèm theo Bản án dân sự phúc thẩm được lấy số liệu và vẽ theo Giấy CNQSDĐ, QSHNƠ và TSKGLVĐ số CH00539 do UBND thành phố Q cấp ngày 01/02/2013 cho ông M bà Ph2)               
 

Đối với số tiền 92.774.400 đồng gia đình bà Ch đang giữ, bà Ch không phải hoàn trả lại cho ông M. - Xét công sức bảo quản, bồi đắp, tu tạo và thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với thửa đất của ông Lê Văn M. Buộc bà Nguyễn Thị Ch phải trả lại cho ông M 41.550.000 đồng tiền bồi đắp đất, 13.532.210 đồng tiền thuế và 50.000.000 đồng tiền trông giữ, bảo quản đất. Tổng cộng là: 136.278.018 đồng. Đối trừ giữa quyền và nghĩa vụ, ông M bà Ph2 còn phải trả cho bà Nguyễn Thị Ch số tiền 366.840.000 đồng, ông M bà Ph2 được quyền sử dụng 118,8m2 tại thửa 78 tờ bản đồ số 9 và sở hữu toàn bộ tài sản gắn liền trên thửa đất nêu trên.

 

Các đương sự có trách nhiệm liên hệ với các cơ quan chức năng có thẩm quyền để thực hiện việc điều chỉnh, cấp các thủ tục hành chính theo quy định của pháp luật.

 

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án mà người phải thi hành án không thực hiện nghĩa vụ thì phải trả thêm lãi suất chậm trả theo quy định tại Điều 468 Bộ luật dân sự 2015. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự  có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy đinh tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

 
2. Về án phí: Áp dụng Điều 26, 27, 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. - Bà Nguyễn Thị Ch không phải chịu án phí sơ thẩm, hoàn trả lại tiền tạm ứng án phí cho bà Ch số tiền 1.500.000 đồng tại biên lai số 000807 ngày 17/11/1999; 150.000 đồng tại các biên lai số 000768 ngày 05/01/2000, biên lai số 02385 ngày 24/9/2001 của Cơ quan thi hành án dân sự thành phố Q; biên lai số 005673 ngày 28/11/2006 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Bình Định và 300.000 đồng (do bà Ph nộp) tại biên lai số 08023 ngày 05/7/2017 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Bình Định. - Ông Lê Văn M phải chịu 200.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, 4.638.720 đồng án phí dân sự sơ thẩm (về khoản 92.774.400 đồng ) và 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm. 3. Về chi phí tố tụng: Ông Lê Văn M phải chịu 1.900.000 đồng (chi phí thẩm định và định giá tài sản năm 2014) và 2.000.000 đồng (chi phí thẩm định và định giá tài sản năm 2017) tổng cộng 3.900.000 đồng. Ông M đã nộp 500.000 đồng, còn phải hoàn trả lại cho bà Nguyễn Thị Ch 3.400.000 đồng. 4. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm về bác yêu cầu của Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản tỉnh Bình Định, án phí dân sự sơ thẩm đối với Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản tỉnh Bình Định không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. (Kèm theo bản án có sơ đồ phân chia thửa đất.)   


 TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA 
 
 (Đã ký) 
 
 

 

Ý kiến của bạn